Danh mục bài viết

Hỗ trợ trực tuyến

Tin tức

Liên kết web

Thống kê truy cập

  • Hôm nay:

    118
  • Ngày hôm qua:

    160
  • Tuần hiện tại:

    741
  • Tháng hiện tại:

    278
  • Lượt truy cập:

    841835

Quảng cáo

Thuốc mới

Tiện ích

Cơn đau thắt ngực và thiếu máu

1.Nguyên Nhân :

 Nhiễm mỡ xơ mạch vành: Là nguyên nhân trong 90% trường hợp. Cơn đau thắt tim do nhiễm mỡ xơ mạch tiên lượng xấu, dễ
chuyển sang nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim, suy tim, chết đột ngột.
 Các nguyên nhân khác (10%).
Tổn thương thực thể ở động mạch vành hoặc suy chức năng mạch vành: Tổn thương thực thể như viêm động mạch vành do giang mai,
viêm quanh nút động mạch, tắc mạch vành do máu cục từ xa đưa đến.
Suy động mạch vành chủ yếu do hẹp van động mạch chủ, calci hóa hay không, hở van động mạch chủ nặng: Hẹp hai lá khít, cơn nhịp
nhanh kịch phát, thiếu máu nặng kéo dài...

2. Điều Trị :

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Cơn điển hình
 Đau sau xương ức đột ngột, thường xảy ra khi đang đi vội, leo dốc, lên cầu thang, khi trời lạnh v.v...
 Cảm giác tức ngực như có vật đè lên sau xương ức hoặc bên trái, đau lên hai vai, hai quai hàm dưới, phía trong tay trái lan lên cổ.
Cũng có khi cảm giác đau nhói hoặc nóng bỏng.
 Cảm giác bồn chồn lo sợ, cơn kéo dài vài giây đến vài phút. Nếu kéo dài hơn nửa giờ phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim.
Cơn có thể thưa hay mau. Cơn càng mau, càng kéo dài, tiên lượng càng xấu. Cơn đau có thể chấm dứt hoặc giảm ngay sau khi hết yếu
tố kích thích hoặc 1–5 phút sau khi dùng các nitrat tác dụng nhanh như ngậm dưới lưỡi viên Nitroglycerin.
Trong thời gian cơn đau, bệnh nhân không có triệu chứng gì khác. Mạch, huyết áp nghe tim phổi bình thường. Mạch Trầm, Tế, Sác.
Cơn không điển hình
 Vị trí và hướng lan: Có khi chỉ đau ở tay, vùng thượng vị, vùng trên xương ức, vùng cổ. Có khi lan ra sau gáy, xuống lưng, ra hai
tay ngón út nhưng không bao giờ lan ra ngón cái, và hàm trên.
 Cường độ đau: Có khi chỉ có cảm giác tức sau xương ức.
 Điều kiện xuất hiện: Cơn đau thắt ngực có khi tự phát, xảy ra lúc ngủ hoặc có cơn xúc động mạnh. Có khi xảy ra liên tục, xuất
hiện dễ dàng chỉ sau một cử động nhẹ.
Triệu chứng lâm sàng còn tùy theo thể loại đau thắt tim mà có khác (đã nêu ở phần đại cương).

ĐIỀU TRỊ BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN
Nguyên tắc chung: Hành khí, hoạt huyết, thông dương, hóa trọc.
Đang lên cơn:
Chủ yếu là dùng các biện pháp cấp cứu tích cực. Cần sử dụng Nitroglycerine (Trinitrine), cho thở oxy. Ở Trung Quốc có chế các loại
thuốc phun sương như chữa chứng hàn thì dùng thuốc Phun Sương Tâm Thống thể hàn (Nhục quế, Hương phụ). Thuốc Phun Sương
Tâm Thống thể nhiệt (Đơn bì, Xuyên khung...). Các học giả Trung Quốc cho là tác dụng không kém Nitroglycerin.
Các y gia Trung Quốc còn dùng thuốc tiêm như dịch tiêm Xuyên khung, mỗi ống 40mg, mỗi lần dùng 40 – 120mg cho vào dung dịch
Glucoza 5%, 150ml – 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, hoặc dùng dịch tiêm Phức Phương Đơn sâm 2–4ml chích bắp hoặc dùng 10 – 20ml
cho vào dung dịch Glucoza 10% – 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, mỗi ngày 1 – 2 lần. Hoặc dùng dịch tiêm Sâm Mạch (có Nhân sâm, Mạch
môn) 20 – 80ml cho vào dịch Glucoza 50% nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2-4 lần hoặc dùng dịch Sâm Mạch 100ml cho vào Glucoza 10% –
250ml nhỏ giọt tĩnh mạch, ngày một lần. Theo báo cáo của Trịnh Tân (Sở nghiên cứu trung y Trùng Khánh) thì dịch Sâm Mạch có kết
quả tốt đối với cơn đau thắt ngực, choáng, loạn nhịp và suy tim. Trường họp cơn nặng cần sử dụng thuốc Tây và cho bệnh nhân thở
oxy. Nếu không có sẵn các loại Đông dược dạng thuốc ngậm, thuốc tiêm và thuốc phun sương thì lúc đang cơn đau ngực chủ yếu là
dùng thuốc Tây kết hợp châm cứu bấm huyệt, xoa bóp.
Các huyệt thường dùng: Chiên trung (chủ huyệt), phối hợp Nội quan, Cự khuyết, Gian sử, Túc tam lý.
Bấm huyệt Nội quan dùng lực mạnh và bảo bệnh nhân thở sâu liên tục 3 lần, đau giảm. Có kinh nghiệm day bấm huyệt điểm giữa
đường nối 2 huyệt Tâm du và Quyết âm du bên trái trong 1–2 phút, đau giảm rõ.
Châm Nội quan (tổng huyệt trị bệnh lồng ngực, làm cho tim phổi điều hòa thư thái), Tâm du (làm cho huyết lưu thông khỏi ứ trệ gây

đau), Chiên trung (huyệt hội của khí, làm cho khí lưu thông, ngực được nhẹ nhàng), Hợp cốc.
Có thể châm nhiều lần trong ngày tùy số lượng cơn đau.
Khi đang lên cơn đau, châm kích thích mạnh, phải đắc khí để đạt hiệu quả giảm đau, người bệnh thấy dễ chịu vùng ngực. Lưu kim 30
phút, cứ 10 phút vê kim một lần.

Sau Cơn Đau
Ngoài các biện pháp như phần trên đã nêu, dùng thuốc Đông y theo biện chứng có vai trò tích cực. Có thể chia mấy thể bệnh dùng
thuốc như sau:
 Tâm khí suy hợp với ứ huyết, đàm tắc: Ngoài cơn đau ngực, tức ngực có triệu chứng mệt mỏi, sắc mặt tái, tự ra mồ hôi,
chân tay yếu, lưỡi nhạt, mạch Nhược, hoặc chất lưỡi tím, thân lười bệu, mạch Trầm Hoạt.
ĐIỀU TRỊ: Bổ tâm khí kèm hoạt huyết, hóa đàm. Dùng bài Bảo Nguyên Thang gia vị: Nhân sâm 6–10g, Hoàng kỳ 20–30g, Bạch
truật 12g, Bạch linh 12g, Quế chi 8 – 10g, Đương qui 12–16g, Đơn sâm 1–16g, Xích thược 12g, Xuyên khung 8–10g, Quất bì
8–10g, Chỉ xác 8g, Bán hạ chế 8–10g, Chích thảo 4g.
Gia giảm: Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo nhân (sao) 16–20g, Bá tử nhân 12g. Dương hư (chân tay lạnh mạch Trầm Trì) thêm
Phụ phiến 6–12g, Can khương 6–10g, ngày một thang sắc uống.
 Âm hư dương thịnh: Đau ngực từng lúc, váng đầu, đau đầu, bứt rứt, dễ tức giận, sắc mặt đỏ, miệng khô, buồn nôn, lòng bàn
tay chân và ngực nóng, mất ngủ, chân tay tê dại, táo bón, mạch Huyền Sác, chất lưỡi và rêu lưỡi đỏ, hoặc rêu lưỡi vàng nhớt hoặc
mỏng (thể này thường kèm huyết áp cao).
ĐIỀU TRỊ: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài Thiên Ma Câu Đằng Ẩm hợp với Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn gia giảm: Sinh địa 16–20g,
Hoài sơn 12g, Bạch linh 12–16g, Trạch tả 12g, Đơn bì 12g, Đơn sâm 12–16g, Thiên ma 10 12g, Câu đằng 12g, Thạch quyết minh
16–20g, Bá tử nhân 12–16g, Cúc hoa 12g, Câu kỷ tử 12–16g. Sắc uống ngày một thang.
 Khí Âm Lưỡng Hư Hợp Với Ứ Huyết, Đờm Uất: Mệt mỏi, ngực đau lâm râm, ngắn hơi, họng có đờm nhưng miệng khô, ra
mồ hôi, ngũ tâm phiền nhiệt, chất lưỡi tím bầm, khô, ít rêu, mạch Hư, Tế, Sác hoặc Kết Đại.
ĐIỀU TRỊ: Bổ khí âm kiêm hoạt huyết, hóa đờm. Dùng bài Chích Cam Thảo Thang hợp với Sinh Mạch Tán gia giảm: Ngọc trúc
12–16g, chích Cam thảo 6–8g, Nhân sâm 6–10g, Hoàng kỳ 12–20g, Mạch môn 12–16g, Ngũ vị tử 6–8g, Sinh địa 12–16g, Đơn
sâm 12–16g, Qua lâu 12g, A giao (hòa uống) 12g, Quế chi 6g, Gừng tươi 6–12g.
Nếu hoa mắt, đau đầu: Thêm Cúc hoa, Kỷ tử; Đau lưng, mỏi gối thêm Tang ký sinh, Sơn thù, Xuyên Ngưu tất; Tim hồi hộp, mất
ngủ thêm Táo nhân (sao), Long nhãn nhục, Viễn chí...

Chứng đau thắt ngực biểu hiện lâm sàng thường là hư thực lẫn lộn, diễn tiến thay đổi nhiều, trên dây chỉ nêu một số thể bệnh thường
gặp. Hư chứng thường là khí hư hoặc khí âm hư, thực chứng thường là can dương thịnh hoặc kiêm huyết ứ, kiêm thấp đàm, khi điều trị
cần chú ý, khi cấp diễn phải kết hợp thuốc Tây, oxy liệu pháp cấp cứu kịp thời.

 3.Tham khảo :

(Theo sách Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn)
 Quan Tâm Đơn sâm Hoàn (Hứa Thiểu Vinh và cộng sự): Sâm tam thất, Đơn sâm, Giáng hương chế thành hoàn, mỗi lần 3 hoàn,
ngày 3 lần, 30 ngày là một liệu trình.
Tác dụng chủ trị: Hoạt huyết, hóa ứ, lý khí, trị bệnh động mạch vành, đau thắt ngực.
 Kiện Tâm Linh (Khoa Nội Bệnh Viện Trực Thuộc Học Viện Trung Y Sơn Đông): Hoàng kỳ 45g, Đảng sâm 80g, Đơn sâm 80g,
Khương hoàng 9g hoặc Uất kim 9g), Huyền hồ (hoặc Huyền hồ bột hòa uống), Quế chi 9g, chích Cam thảo 6g, sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Đờm thấp nhiều thêm Qua lâu, Phỉ bạch, Bán hạ, Trần bì, Bạch giới tử, Hoắc hương, Bội lan. Âm hư bỏ
Quế chi thêm Sa sâm, Mạch môn, Hoàng tinh, Ngọc trúc, Thạch hộc. Dương thịnh thêm Cúc hoa, Câu đằng, Trân châu mẫu.
Huyết ứ nặng thêm Xuyên khung, Hồng hoa, Xích thược, Sinh bồ hoàng...
 Hy Thiêm Kiện Tâm Phương (Bệnh viện giải phóng quân Quảng Châu): Mao đông thanh căn 2,5kg, Hy thiêm thảo, Xuyên Hồng
hoa 90g, Đơn sâm 90g: Sâm tam thất 120g, Giáng hương 30g, Băng phiến 6g, tán bột trộn đều, trộn nước làm hoàn. Ngày uống 3
lần mỗi lần 6g.
Tác dụng chủ trị: Bổ Can Thận, ích nguyên khí, thông hung tý. Trị bệnh động mạch vành, đau thắt ngực.
Đã dùng trị 10 ca đau thắt ngực sau 3 liệu trình (mỗi liệu trình 30 ngày) kết quả tốt 75,5%, có kết quả 95,9%).
 Chế phụ phiến 15g (sắc trước,) Can khương 6g, bột Nhục quế 3g (hòa thuốc uống) Đương qui 12g, Tế tân 6g, Phỉ bạch 80g, Xích
thược 10g, Bạch thược 30g), Hoàng kỳ 30g, Nhũ hương 10g, Một dược 10g, Tất bát 10g, Chích thảo 6g sắc uống. Ngày một
thang, uống liên tục một tháng (trị cơn đau thắt ngực sợ lạnh, chân tay lạnh).
 Sài hồ 15g, Uất kim 12g, Bạch thược 12g, Diên Hồ sách 10g, Chích thảo 6g, Quế chi 10g, Đơn sâm 30g, Khương hoạt 10g, Tế tân
6g, Chế phụ phiến 10g sắc nước uống Ngày một thang uống 15 - 80 ngày [dùng cho trường hợp đau nhiều ở mạng sườn] (Bách
Bệnh Lương Phương).
 Sao Bạch thược 50g, Cam thảo 12g, Đơn sâm 30g, Câu đằng 12g, Sơn giáp 12g, Dã Cúc hoa 45g, Phục linh 10g, Mạch đông 30g,
Uy linh tiên 10g, Lạc thạch đằng 30g, Kê huyết đằng 80g, Ngô công 2 con, Ô tiêu xà 20g. Sắc nước uống [dùng trong trường hợp
âm hư dương kháng] (Bách Bệnh Lương Phương).
 Bạch thược 50g, Cam thảo 10g, Sa sâm 20g, Mạch đông 20g, Sinh địa 30g, Đương quy 80g, Câu kỷ 15g, Xuyên luyện tử 10g, Uất
kim 12g, Kê huyết đằng 30g, Toàn yết 10g, Ngô công 2 con. Sắc uống [dùng cho cơn đau thắt ngực do tinh thần bị kích động]
(Bách Bệnh Lương Phương).
 Dùng mô ngón tay cái xoa bóp huyệt Linh đạo cho mềm trong 1 phút rưỡi, sau đó đè ép mạnh lên huyệt trong 2 phút, sau cùng
lại nắn bóp trong 1 phút rưỡi. Mỗi ngày làm một lần, 15 ngày là một liệu trình. Mỗi liệu trình cách nhau 3 ngày (Trung Hoa Bí
Thuật Châm Cứu Trị Liệu).
 Châm huyệt Nội quan một bên, sâu 0,5-0,7 thốn. Sau đó nối với máy châm, xung điện bổ (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị
Liệu).
 Châm huyệt Nội quan hai bên. Khi đắc khí thì vê kim 120-1800, tần suất 80-100 lần/phút., vê kim 2 phút xong, lưu kim 15
phút. Cách một ngày làm một lần. 12 lần là một lần điều trị (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu).

 GHI CHÚ: Trong quá trình mắc bệnh, cơn đau tim có thể đỡ dần trái lại nặng hơn lên. Biến chứng thường thấy nhất là chết đột ngột

(40–50%), rồi đến tắc động mạch Tim (25%). Do đó, bệnh nhân cần biết giữ gìn, không làm việc gắng sức, tránh tắm lạnh, gió lạnh,
tránh xúc động mạnh.
 Chi Tử Xị Thang và Chi Tử Cam Thảo Xị Thang dùng trong trường hợp ngực đau nặng và sung huyết huyết ngực đột ngột xuất
hiện.
Chi tử giống như Hoàng cầm là chất làm cho mạch máu săn lại và làm giảm đau. Đậu xị được chế biến, là một chất có tác dụng hạ
sốt, giảm nhẹ sung huyết ở ngực và dạ dày.
 Quế Chi Sinh Khương Chỉ Thực Thang: Có tác dụng làm giảm nhẹ cơn đau đột ngột có cảm giác như dao cắt vào tim.
 Qua Lâu Phỉ Bạch Bán Hạ Thang: Dùng trong trường hợp đau thắt ngực do hút thuốc nặng, có cơ thể khỏe mạnh, đờm đặc và
sung huyết ngực.
 Đương Quy Thang dùng trong trường hợp sá mặt xanh xao, ngực đau thể hàn kèm đau lan ra sau lưng.
 Sài Hồ Gia Long Cốt Mẫu Lệ Thang: Dùng trong trường hợp bệnh nhân thể tạng bình thường, nặng dưới tim, đau tim, hồi hộp
dễ kích động dẫn đến rối loạn thần kinh tim.

 4. Bệnh Án :

BỆNH ÁN ĐAU THẮT NGỰC DO XƠ ĐỘNG MẠCH VÀNH
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Phan X, nữ, 49 tuổi, nhân viên, khám cấp cứu sáng 17-5-1978. Bệnh nhân sáng sớm dậy đột nhiên thấy vùng trước tim đau nhức, lan
ra đau khắp vùng sau vai trái, chân tay lạnh toát, mặt xanh tái, ngậm viên Nitroglycerin 1,6mg thì cảm giác có dễ chịu ít nhiều. Bệnh
nhân có bệnh sử động mạch vành đã 3 năm. Lần sau đến khám có làm xét nghiệm kiểm tra và làm điện tâm đồ, chẩn đoán là bệnh xơ
động mạch vành. Đây là khí trệ huyết ứ phải trị bằng phép lý khí đạo trệ, hóa ứ chỉ thống. Dùng bài thuốc Quan Tâm Trục Ứ Thang
(Sinh bồ hoàng 15g, Ngũ linh chi 15g, Nguyên hồ 15g, Sinh sơn tra 25g, Đan sâm 25g, Qua lâu bì 15g, Cát căn 15g, Chỉ xác 15g, Uất
kim 30g, Bạch chỉ 15g, Ngu tất 15g, Thất Ly Tán 1 túi (chia hai lần uống với nước thuốc). Sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần). Uống
4 thang đã bớt đau hẳn ở vùng trước tim, chân tay ấm, sắc mặt hồng nhuận. Cho uống thêm 3 thang nữa đồng thời chú ý điều lý việc
ăn uống, yên tâm nghỉ ngơi. Ngày 24 tháng 5 đến khám, vùng trước tim cơ bản hết đau nhói, mạch đập 110 lần/phút. Xét nghiệm máu
và kiểm tra điện tâm đồ đều chứng tỏ tình trạng tim tốt. Dặn uống thêm 4 thang bài thuốc đó. Ngày 29 tháng 5 khám lại, chứng đau
vùng tim hết hẳn, chân tay ấm, sắc mặt bình thường, rìa lưỡi vốn cơ bản tím đã nhạt đi, mạch Trầm Hoãn, ăn uống tăng, huyết áp
120/80mmHg, mạch đập 105 lần/phút. Kiểm tra điện tâm đồ như trước. Dùng bài thuốc trên bỏ Nguyên hồ, Cát căn, Bạch chỉ thêm
Bán hạ 15g, Lục thần khúc 15g, Đảng sâm 15g, Đương qui 15g. Dặn uống tiếp 4 thang. Ngày 25 tháng 6 bệnh nhân đến làm các xét
nghiệm đều thấy gần như bình thường, không cảm thấy có gì khó chịu. Do đó cho 1 lọ Quan Tâm Tô Hợp Hoàn, mỗi ngày uống 2 lần,
mỗi lần 1 viên. Lại dặn chú ý vấn đề sinh hoạt, đi đứng, điều lý việc ăn uống, làm cho tinh thần thoải mái. Theo dõi nửa năm, chưa thấy
tái phát.


BỆNH ÁN ĐAU THẮT NGỰC DO XƠ ĐỘNG MẠCH VÀNH
(Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Chu X, nam, 60 tuổi, công nhân. Một tháng gần đây sau mỗi lần lao động nặng nhọc thì lại thấy vùng trước tim đau đớn như bị đè ép,
mỗi lần có thể kéo dài tới hơn 10 phút, kèm đầu váng, ho, nhiều đờm. Vì đau ngực dữ dội kèm ra mồ hôi lạnh 4 giờ liền nên ngày 18
tháng 5 năm 1977 phải vào viện cấp cứu, Điện tâm đồ cho thấy nhịp tim thể hang, động mạch vành không cung cấp đủ máu cấp tính.
Sau khi nhập viện tiêm bắp 50mg Dolantin, thở oxy thì đỡ đau, sau đó thường cho dùng 0,2g Aminophyllin, mỗi ngày 3 lần ngậm dưới
lưỡi viên Trinitroglycerin. Đông y hội chẩn thấy người bệnh sắc mặt xanh tím, ra mồ hôi, vẻ ngoài khổ sở, chất lưỡi đỏ nhạt, có ban ứ,
rêu lưỡi bẩn, mạch tượng Huyền Hoạt. Có tiền sử hút thuốc lá, uống rượu, có tiền sử viêm phế quản mạn tính, chẩn đoán là hung
dương không hưng phấn lên được, đờm trọc ứ tắc, cần phải trị bằng tuyên tý thông dương, khử đàm hóa trọc, hoạt huyết hóa ứ. Cho
dùng Ôn Đởm Thang gia vị (Phục linh 15g, Pháp hạ 9g, Trần bì 9g, Trúc nhự 9g, Chỉ thực 12g, Qua lâu xác 30g, Giới bạch 9g, Giáng
hương 15g, Đan sâm 15g, Xuyên khung 15g, Hồng hoa 9g, Quế chi 9g, Bạch truật 15g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Sau khi uống 3
thang, hết đau ngực, uống hết 6 thang thì rêu lưỡi đỡ vàng bẩn, đỡ ho. Sau đó lại xuất hiện chứng thở dốc, đêm ngủ hay bị mơ. Dùng
bài trên, thêm các vị ích khí an thần: Thái tử sâm 30g, Viễn chí 9g, Bá tử nhân 12g, Dạ giao đằng 30g. Uống xong thì đêm ngủ yên. Sau
đó lại đau lưng, đêm đi tiểu nhiều nên lại thêm các thuốc bổ thận như Tiên linh tì 9g, Thỏ ti tử 15g. Dùng thuốc gia giảm hơn 3 tháng,
chưa thấy tim trở lại đau thắt, làm điện tâm đồ nhiều lần thấy đã khôi phục như thường.

BỆNH ÁN ĐAU THẮT ĐỘNG MẠCH VÀNH
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Trương X, nam, 56 tuổi, xã viên, sơ chẩn ngày 21-3-1975. Người bệnh thường vẫn phát sinh hoảng hốt, thở gấp, đau thắt tim ngực
không chịu nổi, thường nằm mơ giật mình dậy, đã hơn nửa năm. Đã từng chẩn đoán là đau thắt động mạch vành, dùng không ít các
thuốc đông thuốc tây mà không kiến hiệu. Khám thấy dinh dưỡng trung bình, vẻ người buồn khổ, da mềm, mặt xanh nhạt, nghe phổi
bình thường, tiếng tim yếu mà nhanh, tim đập 156 lần/phút, mạch Kết Đại, rêu lưỡi mỏng trắng. Dùng một thang Phức Phương Đan
Sâm Ẩm (Đan sâm 15g, Giáng hương 15g, Mộc thông 12g, Vương bất lưu hành 12g, Tam thất 6g, Thông thảo 3g. Sắc uống), thấy các
triệu chứng đỡ, bớt hẳn đau ngực, tiếng tim vẫn yếu, tim đập 142 lần/phút, mạch Trầm mà Đại, lại cho uống tiếp 2 thang. Ngày 28
tháng 3 khám lại đã hết đau ngực, không có cảm giác đè nén. Còn hơi thấy tay chân bải hoải. Đại tiện kết táo, tim còn đập 110
lần/phút, vẫn uống bài trên bỏ Tam thất, Vương bất lưu hành, uống 4 thang. Cảm thấy các chứng đều hết, đã như lúc thường. Theo dõi
hỏi lại chưa thấy tái phát, người khỏe mạnh, có thể làm mọi việc lao động chân tay ở nông thôn.

BỆNH ÁN ĐAU THẮT NGỰC

(Trích trong Chinese Herbal Medicine And The Problem Of Aging)

Một bệnh nhân nam 62 tuổi than phiền thấy khó thở, ngực đau và đau co thắt tim ngay cả khi đi bộ lên xuống cầu thang cũng rất đau,
mặc dù ông ta không ăn quá nhiều, thích ăn thịt và rượu, hút 10 điếu thuốc lá một ngày, thích ăn ngọt và nóng, cũng như chè và nước.
Ông ta thường cảm thấy khát mặc dù không thường xuyên đi đái và khi bị cảm lạnh thì sốt không xẩy ra, trong mùa hè thường có
những đợt tiêu chảy. Các dấu hiệu khác là thiếu máu, môi khô, mạch nhanh, đau ngực nhẹ, nặng vùng dưới tim và phập phồng ở rốn.
Cho ông ta dùng bài Sài Hồ Quế Chi Can Khương Thang; sau 4 tháng, hiên tượng phập phồng biến mất cùng với những khó chịu ở ngực
và trọng lượng cơ thể đã tăng được 2 kg.

 

 

 5. Cơ Chế Bệnh :

Do thiếu máu nên thiếu oxy và để có năng lượng sống, tế bào cơ tim phải cho phân hủy Adenonucleotid để tạo năng lượng. Và trong quá
trình phóng chất Adenosin gây nên đau.

 

 

 

Các tin khác