Danh mục bài viết

Hỗ trợ trực tuyến

Tin tức

Liên kết web

Thống kê truy cập

  • Hôm nay:

    26
  • Ngày hôm qua:

    846
  • Tuần hiện tại:

    2753
  • Tháng hiện tại:

    6541
  • Lượt truy cập:

    840812

Quảng cáo

Thuốc mới

Tiện ích

Xơ gan

  1. Nguyên nhân :

Những nguyên nhân thường gặp theo y học hiện đại là:
        Viêm gan do vi rút.
        Nhiễm bệnh hấp huyết trùng (gặp nhiều ở Trung Quốc).
        Dinh dưỡng kém và nghiện rượu.
        Nhiễm độc hóa chất như Thạch tín... Hoặc do tắc mật kéo dài gây xơ gan, thường rất ít gặp.
    Theo y học cổ truyền thì sự hình thành của xơ gan có liên quan đến 3 tạng Can, Tỳ và Thận. Nguyên nhân chính là do khí trệ, huyết ứ,
    thủy thấp ứ đọng trong cơ thể dẫn đến làm hư tổn thận âm, thận dương. Có thể giải thích cơ chế các triệu chứng bệnh lý như sau: Chứng
    hoàng đản và tích tụ trực tiếp ảnh hưởng đến tạng Can. Can tàng huyết, thích sơ tiết, bệnh lâu ngày, Can không được thông điều sinh ra
    can khí uất sẽ ảnh hưởng đến chức năng của tỳ vị (can vị bất hòa, tỳ vị hư nhược). Trên lâm sàng thường có các triệu chứng như ngực
    sườn đầy tức, ợ hơi, nôn, buồn nôn, chán ăn, tiêu lỏng... bệnh lâu ngày khí trệ sinh ra huyết ứ, biểu hiện các triệu chứng mạng sườn đau
    tức tăng cố định, môi lưỡi tím thâm, các hội chứng ứ huyết, xuất huyết. Mặt khác, nếu do ăn uống thiếu thốn thất thường, nghiện rượu
    quá độ cũng làm tổn thương tỳ vị, chức năng tỳ vận hóa kém nội sinh thấp nhiệt, tân dịch bị tổn thương. Nếu cảm nhiễm trùng độc hoặc
    hóa chất độc hại cũng đều do tác hại can tỳ mà sinh bệnh. Bệnh lâu ngày sẽ tổn hại thận, thận dương hư tiểu khó khăn, phù và cổ trướng
    nặng hơn, thận âm hư dẫn tới can thận âm hư, can hỏa vượng, can huyết hao tổn, can phong động sinh co giật hôn mê... Tóm lại bệnh xơ
    gan giai đoạn đầu chủ yếu là tổn thương can tỳ, khí ứ, huyết trệ, vào giai đoạn cuối tạng thận cũng bị tổn thương sinh ra tỳ thận dương
    hư và can thận âm hư, bệnh trầm trọng và khó trị.

2. Chuẩn Đoán :

Chủ yếu là cần có sự chẩn đoán sớm qua những lần khám sức khỏe có định kỳ, chú ý những người có tiền sử bệnh gan vàng da, điều kiện
    dinh dưỡng kém, nghiện rượu, sống ở vùng có bệnh sốt rét, giun móc, công việc có tiếp xúc với hóa chất độc...
    Chẩn đoán xơ gan căn cứ vào các mặt sau:
        Tiền sử bệnh: Mắc bệnh viêm gan vi rút, hấp huyết trùng, sốt rét, bệnh gan mật, vàng da, điều kiện dinh dưỡng kém, nghiện
    rượu, suy tim phải kéo dài...
        Gan lách to lúc mới mắc, gan to, mặt vùng gan nhẵn, hơi cứng, thời kỳ cuối gan co nhỏ, cứng, bề mặt lồi lõm, có hòn cục, thường
    ấn đau không rõ rệt, lách to hoặc rất to nếu có xuất huyết tiêu hóa thường lách nhỏ lại.
        Chức năng gan suy giảm.
        Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
        Kết quả sinh thiết: Cấu trúc gan biến dạng, tăng sính tổ chức và sự hình thành các cục ở mô gan.
    Căn cứ vào nguyên nhân xơ gan trên lâm sàng thường chia gan do viêm gan, xơ gan do rượu, xơ gan do mật, xơ gan do tim, xơ gan do sắc
    tố, xơ gan do hấp huyết trùng, do sốt rét...
3.Điều Trị :

TRIỆU CHỨNG
        Giai đoạn bắt đầu: Chức năng gan còn bù trừ, triệu chứng lâm sàng thường không rõ hoặc rất nhẹ, chủ yếu triệu chứng rối
    loạn tiêu hóa như ăn không biết ngon, tiêu lỏng, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau nhẹ, hơi tức vùng bụng trên bên phải hoặc
    đầy bụng, nôn hoặc buồn nôn. Khám gan hơi to (có thể không to), có bệnh nhân lách to. Chức năng gan bình thường hoặc hơi suy
    giảm, có thể khám kỹ phát hiện điểm ứ huyết, mạch sao mà xác định bệnh.
        Giai đoạn toàn phát: Chức năng gan suy giảm rõ. Lâm sàng biểu hiện triệu chứng rối loạn tiêu hóa tăng, mạng sườn bên phải
    đau rõ, sụt cân, da sạm, có bệnh nhân vàng da, vàng mắt, điểm ứ huyết, mạch sao ở mặt, ngực, tay, vai, cổ... hoặc có hiện tượng
    giãn mao mạch, bàn tay, đầu ngón tay đỏ mập lên, chân răng, mũi, trĩ, xuất huyết, tiêu có máu, phụ nữ kinh nguyệt nhiều kéo
    dài, hoặc có triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, ít ngủ, chân tay tê dại, ngứa, tiểu ít, hoặc tiểu khó, cổ chân phù, bụng có
    nước nhẹ. Khám gan thấy có thể eo nhỏ hoặc to dưới bờ sườn, bờ sắc cứng.
        Giai đoạn cuối: Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch rõ: Cổ trướng, da bụng bóng, tuần hoàn bàng hệ, tiểu rất ít hoặc vô niệu,
    khó thở, người gầy, sắc mặt sạm tối, da mặt vàng đậm, bệnh nặng có xuất huyết tiêu hóa, tinh thần lờ đờ, buồn ngủ hoặc hưng
    phấn, hốt hoảng, hôn mê gan...

    ĐIỀU TRỊ
    Theo sự phân tích về cơ chế sinh bệnh và theo y học cổ truyền thì trong bệnh xơ gan, bệnh lý chủ yếu là can huyết ứ trệ, cho nên phép
    chữa chính là hoạt huyết hóa ứ và trong quá trình điều trị cần phân biệt rõ các mặt tiêu bản, hư thực, hoãn cấp để chọn phép chữa
    thích hợp, chủ yếu theo 3 giai đoạn bệnh mà biện chứng luận trị.
        Giai Đoạn Đầu: Bệnh mới bị, bệnh nhân còn khỏe.
    ĐIỀU TRỊ: Hoạt huyết, hóa ứ kiêm điều can lý tỳ. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang gia giảm: Đương quy 12–16g, Xuyên Khung
    8g, Chỉ xác 8g, Xuyên sơn giáp (nướng) 12g, Sinh địa hoàng 12g, Đào nhân 8–12g, Sài hồ 8–12g, Ngũ linh chi 6–8g, Xích thược
    8–12g, Hồng hoa 6–10g, Đơn sâm 12g, Miết giáp 12–16g.
    Gia giảm: Mệt mỏi nhiều, thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh để ích khí kiện tỳ. Ăn ít, bụng đầy, bỏ Miết giáp
    thêm Mạch nha, Sơn tra, Thần khúc để tiêu thực. Miệng khô, tiêu ít, vàng, da nóng, vàng da, rêu lưỡi vàng dày, mạch Sác... có
    triệu chứng thấp nhiệt, bỏ Miết giáp, Đào nhân, Hồng hoa thêm Nhân trần, Chi tử, Liên kiều, Xa tiền, Trạch tả... Có triệu chứng
    hư nhiệt như sốt lòng bàn chân, bàn tay nóng, lưỡi thon đỏ, mạch Tế Sác, bỏ Đào nhân, Hồng hoa thêm Tri mẫu, Địa cốt bì, Hạnliên thảo, Mạch môn, Ngũ vị tử... để thanh hư nhiệt. Ngủ kém thêm Táo nhân sao, Bá tử Nhân... để dưỡng tâm, an thần.
        Giai Đoạn Toàn Phát: Chức năng gan suy giảm, cơ thể bệnh nhân yếu, đau hoặc không nhưng có phù, bụng đầy, có nước,
    vùng gan đầy tức... bệnh biểu hiện hư thực lẫn lộn.
    ĐIỀU TRỊ: Sơ can, hoạt huyết, kiện tỳ, lợi thủy. Dùng bài Tiêu Dao Tán thêm Ngũ Bì Ẩm gia giảm: Sài hồ 12–16g, Bạch truật 12g,
    Đan sâm 12g, Đại phúc bì 8–10g, Đương qui 12–16g, Bạch linh 12g, Chỉ thực 8g, Tang bạch bì 12g, Xích thược 10g, Đảng sâm 12g,
    Trần bì 8g, Gừng tươi 3 lát.
    Gia giảm: Mạng sườn đau nhiều, gan lách to, có nốt ứ huyết thêm Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp, chế Hương phụ, Uất kim để
    tăng thêm tác dụng hành khí, hoạt huyết. Có triệu chứng huyết hư thêm Bạch thược, Thục địa, Hà thủ ô, Kỷ tử, Hoa hòe để bổ
    huyết, chỉ huyết. Can thận âm hư, sốt nhẹ, lòng bàn chân tay nóng, chất lưỡi thon đỏ, mạch Huyền Tế cần thêm thuốc tư dưỡng
    can thận như Sa sâm, Mạch môn Ngũ vị tử, Sinh địa, Nữ trinh tử, Câu kỷ tử, Bạch thược, Hạn liên thảo...
        Giai đoạn cuối: Đến giai đoạn cuối thì cơ thể người bệnh đã quá suy yếu do chính khí hư nhưng cổ trướng lại tăng (tà khí thực)
    nên phép chữa phải dùng vừa công vừa bổ, cần chú ý nắm nguyên tắc “cấp trị tiêu, hoãn trị bản”, phép trị bản chủ yếu bổ khí
    huyết, sơ Can, kiện tỳ. Trị tiêu chủ yếu là công trục cổ trướng...
    PHÉP TRỊ: Bổ khí huyết. Dùng bài Bát Trân Thang, Thập Toàn Đại Bổ gia giảm tùy tình hình bệnh.
    Đảng sâm 12g, Bạch truật 30–60g, Kỷ tử 12–20g Đơn sâm 12–20g, Hoàng kỳ 12g, Đương quy 12–20g, Sơn dược 12–16g, Xa
    tiền tử 12–20g, Bạch phục linh 12g, Bạch thược 12–20g, Ý dĩ nhân 12–20g Chích thảo 4–8g.
    Gia giảm: Tỳ thận dương hư, ăn kém, tiêu lỏng, mặt sạm, lưng đau, bàn chân phù, chân tay lạnh, lưỡi bệu, rêu trắng, mạch
    Trầm, Trì, Huyền, cần ôn bổ tỳ thận, dùng bài thuốc gồm các vị chế Phụ tử, Nhục quế, Xuyên ngưu tất, Phòng kỷ, Can khương,
    Bạch linh, Bạch truật, Trạch tả... Trường hợp can thận âm hư, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mắt khô, ít ngủ, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch
    Huyền Tế Sác... cần tư dưỡng can thận, dùng bài thuốc gồm các vị: Hà thủ ô, Kỷ tử, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Đan
    sâm, Kê huyết đằng, Quy bản, Miết giáp... Trường hợp xuất huyết nhiều (nôn ra máu hoặc tiêu ra máu, hôn mê gan, cần xử trí
    cấp cứu kết hợp Đông Tây Y).
 Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trục cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ
 vỏ, ép hết dầu, Đại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1–2g với nước
 ấm. Ngũ Công Tán (Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống 1,5–3g, nuốt ngày 1–2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn
 đều) mỗi lần uống 1,5–3g với nước sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn (Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, Đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần
 bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g.
 Chú ý đối với những bệnh nhân có xuất huyết, có bệnh tim, người bệnh quá suy kiệt, không nên dùng phép trục thủy. Lúc dùng phép
 trục thủy nên kết hợp Tây y truyền dịch để tránh được trạng thái mất nước tổn hại chân âm. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểu
 Đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước
 uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 2–3 tuần có kết qủa tốt.

 Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm Trị Xơ Gan
        Kiện Tỳ Hoạt Huyết Thang (Lưu Hào Giang, bệnh viện Ung thư Nam Thông, tỉnh Giang Tô): Sơn dược, Biển đậu, Ý dĩ, Đơn sâm, Xích
    thược đều 30g, Thần khúc, Cốc nha, Mạch nha, sinh Bồ hoàng đều 10g, Tam lăng, Nga truật đều 15–30g, sắc uống (trị xơ gan
    giai đoạn đầu).
    Khí hư thêm Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 10g. Huyết hư thêm Thục địa, Đương qui đều 10g. Âm hư thêm Nam sa sâm, Mạch môn
    đều 10g. Dương hư thêm Thục phụ phiến 10g, Can khương 3g. Vùng gan đau thêm Kim linh tử, Diên hồ sách đều 10g. Nôn, buồn
    nôn thêm Đại giả thạch 30g, Tuyền phúc hoa 10g. Chảy máu mũi thêm Tiên hạc thảo 30g, Trắc bá diệp sao cháy 10g.
    Kết quả lâm sàng: Trị 42 ca, khỏi 22 ca, kết quả tốt 11 ca, tiến bộ 5 ca, không kết quả 4 ca, tỷ lệ kết quả 90,5%.
        Hộ Can Thang (Hình Bỉnh Vinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc): Bạch truật, Hoàng kỳ, Hổ trượng, Bình địa mộc đều 20g, Sơn dược,
    Sinh ý dĩ, Biển đậu, Đơn sâm, đều 30g, Sao Mạch nha, sao Thần khúc sao Sơn tra đều 10g, Quy vĩ 15g, sắc uống.
    Âm hư thêm Hà thủ ô 30g, Mạch môn 20g. Huyết hư thêm Thục địa 15g, Kê huyết đằng 30g. Khí hư thêm Đảng sâm 20g, Thái
    tử sâm 30g. Dương hư thêm Phụ phiến 10g, Can khương 3g. Xuất huyết thêm Mao căn 30g, Tiên hạc thảo 30g. Vùng gan đau
    thêm Kim linh tử 10g, tiêu Địa long 10g, Sài hồ 5g, Diên hồ sách 10g...
    Kết quả lâm sàng: Trị 37 ca, sau 3–6 tháng, khỏi 18 ca, tốt 11 ca, có kết quả 4 ca, không kết quả 4 ca, tỷ lệ có kết qủa 88,57%.
        Tiêu Trưng Hoàn (Vương Kiện Trung, tỉnh Hồ Bắc): Địa Miết trùng 100g, Bào sơn giáp 100g, Thủy điệt 75g, Đại hoàng 50g, tán
    bột, hồ làm hoàn (có thể trộn nước làm hoàn).
    Dùng bài thuốc theo biện chứng gia giảm, trường hợp có xuất huyết uống thuốc cầm máu, hết xuất huyết tiếp tục dùng.
Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, khỏi 11 ca, cơ bản khỏi 13 ca, tiến bộ 12 ca, không khỏi 4 ca, tỷ lệ có kết quả 90%.
        Hoạt Can Thang (Vương Thanh Chính, huyện Quý Định, tỉnh Quý Châu): Kim tiền thảo, Phục linh đều 30g, Sơn giáp (nướng)
    10g, Trạch Lan 10g, Đại phúc bì 12g, Đơn sâm, Sơn dược, Trạch tả, Hoàng kỳ đều 15g, sắc uống.
    Tỳ hư, thấp nặng thêm Thương truật, Hậu phác, Ý dĩ. Can khí uất bỏ Hoàng kỳ thêm Sài hồ, Bạch thược, Chỉ xác, Hương phụ.
    Khí trệ huyết ứ bỏ Hoàng kỳ, Sơn dược thêm Tam lăng, Nga truật đều 2g, Miết giáp 30g, Đào nhân 12g. Tỳ thận dương hư kết
    hợp bài Phụ Tử Lý Trung Thang.
    Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, tốt 35 ca, tiến bộ 14 ca, không kết quả 1 ca.
        Kiện Tỳ Nhuyễn Can Thang (Chu Minh Liệt, bệnh viện nhân dân Sa Thị số 3, tỉnh Hồ Bắc): Sài hồ, Bạch truật, Ngũ linh chi, Bạch linh,
    Địa long, Đan sâm đều 15g, Thanh bì, Chỉ xác, Bồ hoàng đều 12, Thuyên thảo 10g, Chích Miết giáp 20g, Kê nội kim 8g, Bạch mao
    căn 30g, Cam thảo 5g, sắc uống.
    Biện Chứng gia giảm: Bụng đầy, ăn ít thêm Sa nhân 10g, Sơn tra, Mạch nha, Cốc nha 15g. Bụng có nước thêm bột Nhị sửu sao
    10–15g, sao Sa nhân 8–10g, Xa tiền tử 15–20g. Bụng có tuần hoàn bàng hệ (ứ huyết) thêm Xích thược, Uất kim đều 15g, Tam
    lăng, Nga truật 12–15g. Có mạch sao và lòng bàn tay đỏ thêm Sinh địa 15g, Xích thược 15g, Đào nhân 2g, Hồng hoa 10g, Kê
    huyết đằng 20g. Tiêu lỏng thêm Thương truật 15g, Hoắc hương 10g, Thần khúc 15g, Trạch tả 12g. Gan lác to thêm Thổ miết
    trùng 10g, Quế chi 10g, Xạ can 12g.
    Kết quả lâm sàng: Trị 83 ca, hết triệu chứng lâm sàng, chức nâng gan hồi phục bình thường.
    Kiện Tỳ Phân Tiêu Thang (Lữ Vân Kiếm, bệnh viện Trung y Hạ Ấp, tỉnh Hà Nam): Hoàng kỳ, Sơn dược, Đơn sâm đều 20g, Ý dĩ nhân,
    Xa tiền tử (bọc sắc), Đại phúc bì đều 30g, Đảng sâm, Phục linh, Bạch truật, Tiên linh tỳ, Miết giáp đều 15g, Uất kim, Thanh bì,
    Trần bì đều 12g, Phụ tử, Cam thảo đều 6g sắc uống.
    Cam toại, Nhị sửu đều 6g, Phụ tử, Nhục quế đều 10g, Nước Gừng tươi lượng vừa đủ, thuốc đều tán thành bột mịn, cho gừng trộn
    đều, cho vào vải gạc, thêm nước gừng thành dạng hồ, đắp vào rốn bệnh nhân, mỗi ngày thay 1 lần. 10 ngày là 1 liệu trình.
    Biện chứng gia giảm: Chỉ số hoàng đản tăng, dùng bột Tử ha xa, Lộc nhung. Tiểu cầu giảm, thời gian máu đông, máu chảy
    kéo dài thêm Hạn liên thảo, Nữ trinh tử, Tiên hạc thảo. Amoniac huyết tăng thêm Đại hoàng, Xương bồ, Giáng hương. SGPT tăng
    cao thêm Bồ công anh, Hạ khô thảo. HBsAg dương tính thêm Thổ phục linh, Hổ trượng, Quán chúng. Ăn kém thêm sao Mạch
    nha, sao Thần khúc, sao Sơn tra, Kê nội kim. Âm hư thêm Bắc sa sâm, Mạch đông, Cát căn, bỏ Phụ tử, Tiên linh tỳ.Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, khỏi 8 ca, tốt 29 ca, có kết quả 10 ca, không kết quả 3 ca, tỷ lệ có kết quả 94%.
        Tam Giáp Phục Can Hoàn (Trương Húc Đông, bệnh viện Trung y Chu Châu tỉnh Hồ Nam): Chích Miết giáp, bào Giáp châu, Quy bản,
    A giao, Hoài sơn, Đương quy, Sinh hoàng kỳ, Ý dĩ, Phục linh đều 150g, Kê nội kim 100g, Trầm hương 75g, tất cả thuốc trên tán
    bột mịn, mật vừa đủ làm hoàn.
    Biện chứng gia giảm: Can khí uất trệ, dùng Tiêu Dao Tán gia giảm. Huyết ứ, thủy trệ, dùng Đại Hoàng Miết Trùng Hoàn gia
    giảm. Thấp nhiệt ứ trệ dùng Nhân Trần Tứ Linh Tán hợp Tam Nhân Thang gia giảm. Can thận âm hư gia Lục Vị Địa Hoàng Hoàn
    gia giảm.
    Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, kết quả tốt 24 ca, tiến bộ 10 ca, không kết quả 6 ca. Đối với xơ gan, bài này làm tăng tác dụng
    thuốc tây lợi tiểu.
        Hoàng Kỳ Nga Truật Thang (Trung Y Tạp Chí (7) 1990): Hoàng kỳ (sống) 20g, Nga truật 30g, Bạch truật (sao) 15g, Hồng hoa
    20g, Sài hồ (tẩm dấm) 10g, Bạch phàn 2g, Địa miết trùng 10g, Cam thảo (sống) 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
    Tác Dụng: Sơ Can lý khí, hoạt huyết hóa ứ. Trị xơ gan giai đoạn đầu.
    Đã trị 78 ca, có hiệu quả 37, chuyển biến tốt 33, không hiệu quả 8. Tỉ lệ đạt kết quả là 89,7%.
        Lợi Thủy Tiêu Trướng Thang (Thiểm Tây Trung Y (5) 1981): Bạch truật, Thương truật, Sa nhân đều 10g, Thanh bì, Trần bì, Hậu
    phác, Chỉ thực đều 9g, Hương phụ, Mộc hương đều 6g, Phục linh, Đại phúc bì, Trư linh, Trạch tả đều 15g, Ý dĩ nhân 6g, Sinh
    khương 3 lát.
    Tác Dụng: Nhu Can lý khí, kiện Tỳ lợi thấp. Trị xơ gan, bụng trướng nước.
    Đã trị 20 ca đều có kết quả tốt.
        Lý Khí Trục Thủy Thang (Hồ Bắc, Trần Đống Tổ Truyền Bí Phương): Thanh bì, Trần bì, Chỉ xác, Mộc hương, Hậu phác, Binh lang
    (phiến), Địa phu tử đều 9g, Phục linh 30g, Đại kích, Cam toại.
    Thuốc sắc. Còn Đại kích, Cam toại, tán bột, trộn đều chia làm 4 phần, lần đầu 1,5g, 3g,, 4,5g, 6g.
    Tác Dụng: Lý khí, trục thủy. Trị xơ gan giai đoạn đầu.
    Ghi Chú: Sau khi uống thuốc, có thể đi tiêu 3–5 lần, thường ra nước mầu đen.
    Đã trị hàng trăm ca đều có kết quả tốt.
    Tiêu Trùng Ẩm (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đảng sâm, Đương quy đều 15–20g, Bạch truật 30–100g, Phục linh 20–30g,
    Sài hồ 6g, Xích thược, Đại phúc bì đều 10–15g, Địa khô lâu 40–60g. Sắc uống.
    Tác Dụng: Kiện Tỳ ích Can, hòa Can hoạt huyết, lý khí tiêu trướng, trục thủy đạo trệ. Trị xơ gan, bụng trướng nước. Lâm sàng
    cho thấy đạt hiệu quả khả quan.
        Thanh Nhiệt Đạt Uất Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đại sinh địa 35g, Công đinh hương, Can khương, Viễn chí (sống),
    Hoàng cầm, Quế chi, Bồ công anh đều 10g, Tri mẫu 20g, Cam thảo 8g, Đại táo 10 trái. Sắc uống.
    Tác Dụng: Bình điều âm dương, thanh nhiệt đạt uất. Trị xơ gan, bụng nước, bế kinh, không thụ thai. Lâm sàng cho thấy đạt
    hiệu quả khả quan.
4.Bệnh Án :
                                                                  BỆNH ÁN XƠ GAN GIAI ĐOẠN ĐẦU
                                                       (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

    Hoạn X, nam, 42 tuổi, cán bộ. Bệnh nhân kể đã 6 năm có gan to, vùng gan đau với bệnh viêm gan không rõ rệt. Có bộ mặt đau gan
    mạn tính, trên mặt có các u mạch hình sao, cũng mạc không nhiễm vàng, vùng lá gan và bụng mềm, bờ gan ở dưới bờ sườn 2 khoát
    ngón tay, thể chất trung bình, mặt gan nhẵn không gồ ghề, chưa sờ thấy lách, chưa có cổ trướng. Xét nghiệm chức năng gan chưa thấy
    biến đổi rõ rệt, tỉ số albumin, globulin là 1,3/1. Chẩn đoán lâm sàng là xơ gan giai đoạn sớm.
    HỘI CHẨN ĐÔNG Y: Thấy vùng gan đau, ăn không ngon, bụng đầy, miệng khô, buồn nôn, trong lòng bứt rứt không yên, chân phù nhẹ,
    tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Tế Huyền hơi xác. Trị bằng phép dưỡng âm nhu can, sơ can hoạt lạc.
    Cho dùng bài Nhất Quán Tiễn Gia Vị (Sinh địa hoàng 15g, (Nam) Sa sâm 12g, (Thốn) mạch đông 9g, Qui thân 9g, Cam kỉ tử 9g, Xuyên
    luyện tử 6g, Tử đan sâm 6g, Quảng uất kim 9g, Sinh mạch nha 12g, Sinh miết giáp 12g, Phấn trư linh 12g, Xuyên liên 3g.). Tùy bệnh
    chứng mà gia giảm, trước sau dùng tất cả 35 thang, đồng thời dùng phối hợp các thuốc tây bảo vệ gan, sau khi dùng thuốc thì cảm thấy
    các chứng cơ bản đều hết, sắc mặt từ chỗ gụ xám trở thành có thần sắc, gan mềm đi, điện di protein bình thường. Sau khi ra viện 2
    năm, hỏi lại tình trạng cơ thể vẫn giữ được ổn định, bệnh chưa phát triển lại.


                                                                       BỆNH ÁN XƠ GAN DO MỠ
                                                     (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

    Vương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo như phù, bụng to như cái chum, da thịt sờ như bông, đầu váng mắt hoa, sức
    yếu, lời nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng
    nói hơi yếu. 5–6 năm trước bị đau sườn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ăn ít, mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua
    kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần, thể trọng
    tăng, gan to xuống dưới bờ sườn 4 khoát ngón tay, huyết áp 140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên.
    Lại đi khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tăng huyết áp. Chứng này là do can ứ, tì thấp, dương khí bất túc,
    mỡ đờm ứ kết mà thành bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương. Dùng bài thuốc Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị (Sơn tra sống, chín mỗi thứ 120g, Mạch nha sao 21g, Thanh bì, Trần bì mỗi thứ 9g, Khương hậu phác 12g, Trạch tả 15g,
    Quế chi non 9g, Hương phụ sao dấm 15g, Cam thảo 6g.). Sau ba thang, trung tiện nhiều, thối, nước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân
    như nước tương, bụng bớt sôi, bớt trướng, hết rêu lưỡi, lượng ăn tăng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn
    như trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tăng lượng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh bớt béo
    bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, lưng trở nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch Trầm
    Hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g,
    Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đương qui 9g, Thăng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống
    với nước thuốc), Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra 90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn
    chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết
    điểm ứ huyết mạch Phù Hoãn. Nên “kiện tì lợi thấp, ôn hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ”. Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ
    Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc nước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chưa ra
    mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1 bát to Thông bạch thang nóng, mồ hôi ra nhiều như dầu, dính, tanh, nặng mùi, ướt
    hết chăn đệm, trung tiện nhiều. Hôm sau ngủ dậy, người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, nước
    tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sườn nửa khoát ngón tay, cơn đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết
    rêu, mạch Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh đều hết. Lại dùng Sài Thược Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đương
    qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều năm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác
    bình thường, sức khỏe tốt.
    BÀN LUẬN: Đa số bệnh mạn tính cố tật thường chữa sai, dùng phương dược sai, xơ gan do mỡ cũng do lúc đầu chữa không đúng nên
    bệnh kéo dài, chữa khó khăn. Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, gia giảm theo tình hình cụ thể của người bệnh đã chữa khỏi 2 ca
    xơ gan do mỡ, 4 ca béo bệu.


    Thang gia vị (Sơn tra sống, chín mỗi thứ 120g, Mạch nha sao 21g, Thanh bì, Trần bì mỗi thứ 9g, Khương hậu phác 12g, Trạch tả 15g,
    Quế chi non 9g, Hương phụ sao dấm 15g, Cam thảo 6g.). Sau ba thang, trung tiện nhiều, thối, nước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân
    như nước tương, bụng bớt sôi, bớt trướng, hết rêu lưỡi, lượng ăn tăng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn
    như trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tăng lượng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh bớt béo
    bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, lưng trở nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch Trầm
    Hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g,
    Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đương qui 9g, Thăng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống
    với nước thuốc), Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra 90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn
    chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết
    điểm ứ huyết mạch Phù Hoãn. Nên “kiện tì lợi thấp, ôn hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ”. Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ
    Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc nước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chưa ra
    mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1 bát to Thông bạch thang nóng, mồ hôi ra nhiều như dầu, dính, tanh, nặng mùi, ướt
    hết chăn đệm, trung tiện nhiều. Hôm sau ngủ dậy, người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, nước
    tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sườn nửa khoát ngón tay, cơn đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết
    rêu, mạch Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh đều hết. Lại dùng Sài Thược Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đương
    qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều năm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác
    bình thường, sức khỏe tốt.
    BÀN LUẬN: Đa số bệnh mạn tính cố tật thường chữa sai, dùng phương dược sai, xơ gan do mỡ cũng do lúc đầu chữa không đúng nên
    bệnh kéo dài, chữa khó khăn. Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, gia giảm theo tình hình cụ thể của người bệnh đã chữa khỏi 2 ca
    xơ gan do mỡ, 4 ca béo bệu.


                                                                       BỆNH ÁN XƠ GAN SAU HOẠI TỬ
                                                          (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

    Vương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo như phù, bụng to như cái chum, da thịt sờ như bông, đầu váng mắt hoa, sức
    yếu, lời nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng
    Vương X, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo như phù, bụng to như cái chum, da thịt sờ như bông, đầu váng mắt hoa, sức
    yếu, lời nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếngnói hơi yếu. 5–6 năm trước bị đau sườn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ăn ít, mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua
    kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần, thể trọng
    tăng, gan to xuống dưới bờ sườn 4 khoát ngón tay, huyết áp 140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên.
    Lại đi khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tăng huyết áp. Chứng này là do can ứ tì thấp, dương khí bất túc,
    mỡ đờm ứ kết mà thành bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương. Dùng bài thuốc Tam Tiên Vị Linh
    Thang gia vị. Sau ba tháng, trung tiện nhiều, thối, nước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân như tương, bụng bớt sôi, bớt trướng, hết rêu
    lưỡi, lượng ăn tăng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn như trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tăng
    lượng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh bớt béo bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, lưng trở
    nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch Trầm Hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương
    trung khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g, Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ
    9g, Hoàng kỳ 21g, Đương qui 9g, Thăng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống với nước thuốc), Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra 90g,
    Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở
    gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết điểm ứ huyết mạch Phù Hoãn. Nên "kiện tì lợi thấp, ôn
    hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ". Dùng bài Tam Tiên Vị Linh Thang gia vị, bỏ Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g,
    Khương bì 15g sắc nước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chưa ra mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1
    bát to Thông Bạch Thang nóng, mồ hôi ra nhiều như dầu, dính, tanh, nặng mùi, ướt hết chăn đệm, trung tiện nhiều. Hôm sau ngủ dậy,
    người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, nước tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sườn nửa
    khoát ngón tay, cơn đói khát ăn tăng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết rêu, mạch Hoãn Nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng
    bệnh đều hết. Lại dùng Sài Thược Lục Quân Tử Thang, thêm Hoàng kỳ, Đương qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy
    thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều năm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác bình thường, sức khỏe tốt.

                                                 BỆNH ÁN XƠ GAN DO TĂNG ÁP LỰC TÍNH MẠCH CỬA
                                                   (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

    Thôi XX, nam 41 tuổi, công nhân. Bệnh nhân từ năm 1973 phát hiện thấy gan lách bị sưng to, chức năng gan khác thường. Năm 1975
    chẩn đoán là viêm gan mạn tính. Từ năm 1977 đến nay, lách ngày càng một to, đi khám ở nhiều bệnh viện đều chẩn đoán là xơ gan do
    tăng áp lực tĩnh mạch cửa, cường lách, bệnh nhân được khuyên là mổ cắt lách, nhưng bệnh nhân không đồng ý. Ngày 23-2-1979 đến
    viện điều trị. Khi vào viện, hai bên sờn bệnh nhân đau nhói hoặc đau âm ỉ rất khó chịu, lợi bị chảy máu ít nhiều, còn ăn uống được.
    Kiểm tra thấy: Sức khỏe nói chung còn tốt, gan to dưới bờ sườn 1,5 cm, lách to dưới bờ sờn 3cm, hơi cứng, ấn đau. Lưỡi đỏ tím, có điểm
    huyết ứ, rêu mỏng, rìa lưỡi ám đen, mạch Tế, Sáp. Xét nghiệm thấy: Chức năng gan bình thường, bạch cầu 3800/mm3, tiểu cầu
    76000/mm3. Kiểm tra siêu âm thấy lách dày 5 cm ở dưới bờ sờn 3cm, bờ trên của gan nằm ở gian sườn thứ 6 (7cm), dưới bờ sườn 2
    cm. Uống thuốc Barit để chụp phim cho thấy tĩnh mạch thực quản ở đoạn dưới giãn nhẹ.
    Chứng này là do huyết ứ nội trở gây ra. Điều trị phải loại huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài Nhuyễn Kiên Súc Tì Thang
    (Đương qui 15g, Xuyên khung 9g, Tam lăng (sao) 9g, Nga truật 9g, Đào nhân (sao) 9g, Thổ nguyên 9g, Đan sâm 30g, Sài hồ 12g, Trần
    bì 12g.), mỗi thang sắc tới còn 300ml, uống một lần vào buổi tối lúc đói. Hai tuần sau kiểm tra chức năng gan, transaminase glutamic
    tăng cao đến 36 đơn vị (theo phương pháp cải tiến), bèn ngừng bài thuốc trên, cho dùng bài Kiện Can Sinh Hóa Thang: Đảng sâm 15g,
    Bạch truật (sao) 9–12g, Sơn dược (sống) 30g, Đương qui, Thanh bì, Chỉ xác (sao) mỗi thứ 12g, Đan sâm 15–30g, Bạch thược (sống)
    18g, Long đởm thảo, Xuyên liên mỗi thứ 6–9g, Sài hồ 9g, mỗi ngày sắc uống một thang, cùng thuốc tây y loại bảo vệ gan. Sau nửa
    tháng, transaminase glutamic trở lại bình thường. Tiếp tục uống Nhuyễn Kiên Súc Tì Thang, uống thêm Súc Tì Tán (Ngũ linh chi 30g,
    Nga truật, Tam lăng mỗi thứ 60g, Xuyên sơn giáp 90g, Sài hồ 45g, cùng tán bột mịn, mỗi lần uống 6g, ngày uống hai lần sáng tối). Một
    tháng sau, gan lách đều thu nhỏ. Nằm viện 96 ngày, khi ra viện bệnh nhân tự thấy khỏi hết bệnh, lưỡi hơi tím nhạt, sáu mạch Huyền
    hữu lực, chức năng gan bình thường, bạch cầu 5300/m3, tiểu cầu 95.000/mm3. Kiểm tra bằng siêu âm: Lách dày 3,5cm. Chụp
    phim sau khi uống barit thấy hết giãn tĩnh mạch, thực quản. Ra viện tiếp tục điều trị. Sau một tháng khám lại, tiểu cầu lại tăng đến
    113.000/mm3. Theo dõi trong 4 tháng, tình trạng tốt, khỏi bệnh.
    BÀN LUẬN: Xơ gan do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, lách sưng to, cường lách thuộc phạm trù tích tụ trong đông y. Tích tụ chia ra chứng
    tích và chứng tụ. Chứng tích phần lớn thuộc phần huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Đơn thuốc Súc Tì Thang và Súc Tì Tán được cấu
tạo theo phép này, ứng dụng vào lâm sàng thu được hiệu quả mỹ mãn. Trong thời gian điều trị, liều lượng thuốc phải từ ít đến nhiều,
    tăng dần liều lượng sao cho không tổn thương chính khí (ý nói tình trạng chung và các chỉ tiêu chức năng gan, đôi khi phối hợp uống với
    Súc Tì Tán để nâng cao hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian chữa bệnh. Nhưng phải chú ý định kỳ kiểm tra chức năng gan và xét
    nghiệm máu, nước tiểu để nắm vững những thay đổi. Nếu bệnh nhân tự cảm thấy chứng bệnh rõ rệt, chức năng gan bị tổn thương
    nghiêm trọng thì phải giảm liều hoặc ngừng hẳn thuốc, chuyên sang dùng thuốc phù chính của đông y hoặc thuốc bảo vệ gan của tây y
    để điểu chỉnh cũng có thể dùng bài thuốc Kiện Can Sinh Hóa Thang để chữa, đợi chức năng gan chuyển biến tốt mới tiếp tục công trị
    cho đến khi khỏi hẳn.


    BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO :

                                                                     THẤP NHIỆT ỦNG TRỆ
                                                (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)

    Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như cái trống,
    bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máu,
    ăn không được, nước tiểu ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, nước tụ, khí
    trệ, huyết ứ, cổ trướng.
    ĐIỀU TRỊ: Phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài Hóa Thấp Trục Ứ Tiêu Thũng Thang (Miết giáp 30g, Cù mạch
    30g, Xa tiền tử 20g, Tam lăng 6g, Nga truật 6g, Phục linh 12g, Trạch tả 18g, Xuyên giáp 6g, Xích thược 10g, Đào nhân 9g, Tiểu kế
    30g, Phúc bì 12g, Hồ lô nửa quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g Đại Tiểu kế nấu thành
    nước thay trà uống nhiều lần. Uống xong bụng nước rút hết, ăn uống dần tăng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì
    dưỡng huyết như Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đương qui v.v... vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối.
    Lách bệnh nhân trở lại như bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15
    năm, không thấy tái phát.

                                                           BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO
                                                           CAN UẤT KHÍ TRỆ, TỲ VỊ HƯ TỔN

                                             (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)


 Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng trướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 năm, khám ở một
 bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ăn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng
 trướng tăng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như cái trống, nước tiểu ít, màu vàng. Mạch Trầm, Hoãn. Đã rút nước ở bụng 2
 lần, mỗi lần 1000ml.
  ĐIỀU TRỊ: phải hành khí lợi thủy, thư can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh Oa Tán với Mẫu Kê Sâm Kỳ Thang. Sau khi dùng thuốc
 100 ngày, cổ trướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường.

    BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG
    DO THẤP NHIỆT ĐÌNH TRỆ

    (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)


 Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện rượu, ăn ít bụng trướng. Gần đây lượng nước tiêu giảm, bụng căng như trống. Xét nghiệm
 chức năng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, chẩn đoán là xơ gan cổ trướng. Dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng
 kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt sạm đen, mũi đỏ, không đói,
 tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng trướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch Huyền Sác. Đó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn
 thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ trướng. Cho uống Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn (Bạch truật 60g, Phục linh 30g,
 Trần bì 30g, Khương bán hạ 30g, Sinh cam thảo 10g, Tiêu thần khúc 30g, Sinh hương phụ 45g, Khổ sâm 15g, Hoàng liên sao 15g,
 Cương châm xa 45g (tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ). Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nước (mỗi thứ một nửa) trộn
 thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70-80 hoàn, uống với nước thuốc sau: Bạch truật
 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g.), trước hết đem
 thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng trướng giảm dần, tiểu tiện                                                                         trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ trướng, ăn ngon hơn, kiểm tra chức năng
    gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khỏe vẫn tốt.
    BÀN LUẬN: Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn do Chu Đan Khê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ
    albumin/globulin đảo ngược, dù là có cổ trướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210g là có thể
    khiến nước tiểu trong và nhiều, bệnh nặng thì uống 500g đã được như thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức
    năng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thì l

Các tin khác